Đức Linh - kết quả thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TU (khóa X) về đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hàng hóa.

  • /
  • 21.3.2011 - 0:0

Từ khi triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa X) về đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá đến năm 2005 và năm 2010 và Chương trình hành động số 5088/UBBT-PPLT, ngày 17/12/2004 của UBND tỉnh, các cấp Uỷ từ huyện đến cơ sở và cán bộ đảng viên trong toàn Đảng bộ huyện đã có chuyển biến tích cực trong nhận thức, thống nhất cao với mục tiêu, các chỉ tiêu chủ yếu và nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn. Coi phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của huyện để tập trung chỉ đạo trong suốt nhiệm kỳ. Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, Đảng bộ huyện Đức Linh đã xác định công tác phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá là nhiệm vụ quan trọng để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, tạo ra nhiều công ăn việc làm, góp phần tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân. Trên cơ sở đó, huyện đã đề ra phương hướng, mục tiêu chủ yếu, nhiệm vụ cụ thể và giải pháp thực hiện nhằm phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Tập trung đầu tư phát triển mạnh năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng và sức mạnh cạnh tranh các sản phẩm hiện có để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu địa phương. Đẩy mạnh và phát triển các ngành sản xuất các sản phẩm mới từ nguồn nguyên liệu địa phương. Tạo điều kiện phát triển dịch vụ cơ khí, sửa chữa máy nông cụ nhỏ, thiết bị làm đất, thu hoạch, sửa chữa cơ điện, điện tử, phục vụ tốt nhu cầu tại chỗ. Mở rộng dịch vụ cung cấp điện, đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện.

Các cấp, các ngành rà soát bổ sung qui hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, quy hoạch vùng nguyên liệu phụ vụ cho sản xuất xuất khẩu. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đáp ứng được nhu cầu phát triển. Triển khai thực hiện tốt hệ thống chính sách của Trung ương, của Tỉnh để khuyến khích thu hút đầu tư và khai thác tốt nguồn lực phục vụ phát triển sản xuất. Đẩy mạnh hoạt động công tác khuyến công và đào tạo nguồn nhân lực.

Qua 5 năm qua triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa X), hoạt động sản xuất, xuất khẩu có những bước chuyển biến tích cực. Các chính sách, cơ chế quản lý được ban hành tương đối đồng bộ, tạo điều kiện để thu hút đầu tư phát triển. Công tác khuyến công được quan tâm đẩy mạnh, nhất là các hoạt động tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật của nhà nước và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc hiên đại hoá máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất. Công tác bảo vệ môi trường trong sản xuất công nghiệp được chú ý và đạt được những kết quả bước đầu. Công nghiệp chế biến các sản phẩm xuất khẩu từ nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương như: chế biến mủ cao su, nhân hạt điều, lương thực, tinh bột mì, thức ăn gia súc, đũa tre, may mặc... được đầu tư công nghệ mới; năng lực quản lý của các doanh nghiệp và qui mô đầu tư của các dự án được nâng lên như: Nhà máy chế biến thức ăn gia súc của Công ty cổ phần Japfa Bình thuận, Nhà máy chế biến mủ cao su Suối kè của Công ty Cao su Bình thuận, Nhà máy chế biến mủ cao su Sao Thái Dương, Nhà máy gạch Tuynel Bắc Mỹ, Nhà máy gạch Tuynel Thái Bảo, Nhà máy chế biến tinh bột mỳ Tiến Phát, Xí nghiệp chế biến hạt điều của công ty Đức Hà ...

Về kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, doanh thu dịch vụ: kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá tập trung là nhóm hàng nông – lâm sản. Tốc độ tăng sản lượng bình quân giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010 đối với một số mặt hàng như: mủ cao su tăng 29,81%; bột mỳ tăng 37,06%, nhân hạt điều 30,18%, mây tre đan 13,67%.

Các cơ sở sản xuất Công nghiệp - TTCN phát triển đã góp phần giải quyết lao động không ngừng tăng hàng năm. Năm 2010 thu hút được trên 5.500 lao động, tăng 1,8 lần so với năm 2005; bên cạnh còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng dần lao động khu vực công nghiệp và dịch vụ, hình thành lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề được đào tạo, có kỹ năng lao động và ý thức chấp hành pháp luật, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn.

Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng đạt 13,70%, so với năm 2005 tăng 1,4%; trong đó công nghiệp tăng 12,3%, ngành xây dựng tăng bình quân 17,6%; GDP tính theo giá hiện hành của năm 2010 so với năm 2005 tăng gấp 3,65 lần. Thu nộp cho ngân sách giai đoạn từ năm 2006 - 2010 là 59.835 triệu đồng, tăng gấp 2,6 lần so với giai đoạn năm 2001- 2005.

Đến năm 2010 toàn huyện có hơn 1.100 cơ sở sản xuất công nghiệp - TTCN, tăng 46,6% số cơ sở so với năm 2005. Trong đó có 124 cơ sở hoạt động theo luật doanh nghiệp, còn lại là hộ kinh doanh cá thể. Đầu tư mới của các doanh nghiệp trong 5 năm là 49 cơ sở, đã đi vào hoạt động 32 cơ sở, tăng gấp 3,2 lần so với năm 2005. Đã hình thành 6 cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và 1 làng nghề, tăng 2 cụm so với năm 2005, đó là cụm Đức Hạnh và cụm Võ Xu. Tổng giá trị đầu tư hạ tầng vào các cụm trong thời gian qua đạt 12,076 tỷ đồng, trong đó vốn huy động 3,9 tỷ, còn lại là đầu tư từ ngân sách nhà nước. Hiện có 107 cơ sở nằm trong các cụm sản xuất CN - TTCN, tăng 13 cơ sở so với năm 2005. Tuy còn ít, nhưng qui mô đầu tư lớn và đúng định hướng ngành nghề kêu gọi đầu tư như chế biến mủ cao su, chế biến nông sản, gia công may mặc...

Sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết, tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 đạt 15,55%. Cơ cấu kinh tế (GDP) khu vực công nghiệp - xây dựng từ 18,86% năm 2000 đến năm 2005 tăng lên 20,65%, năm 2010 là 34,02%. Thu hút lao động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp không ngừng tăng lên từ 1.758 lao động năm 2000 lên 3.002 lao động năm 2005 (tăng 1,71 lần) và 5.278 lao động năm 2009 (tăng 3,3 lần so với năm 2000), góp phần tích cực trong việc giải quyết việc làm trên địa bàn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng dần lao động khu vực công nghiệp và dịch vụ, hình thành lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề được đào tạo, có kỹ năng lao động và ý thức chấp hành pháp luật, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn. 


  • |
  • 908
  • |

Các tin khác